BÁO CÁO TIOSS SỐ 5: GHÉP XƯƠNG THEO CHIỀU ĐỨNG VÀ CHIỀU NGANG Ở VÙNG THẨM MỸ
Lanka Mahesh, Sandeep Singh, Sagrika Shukla, Ấn Độ.
1. GIỚI THIỆU
Khoảng trống mất răng lâu ngày sẽ để lại hệ quả tiêu xương, tạo ra các thiếu hụt về xương gây khó cho quá trình cấy ghép implant. Chính vì lý do đó,nhiều phương pháp ghép xương được áp dụng để tăng chất lượng của xương tại vị trí cấy ghép. Có 4 loại xương ghép phổ biến hiện nay đó là xương tự thân (autografts, thu thập từ chính bệnh nhân), xương ghép đồng loại (allografts, thu thập từ cá thể khác cùng loài) , xương ghép dị loại (xenografts, thu thập từ loài khác và xương ghép tổng hợp (aloplast, được tổng hợp nhân tạo).
Autograft là tiêu chuẩn vàng cho tất cả các loại vật liệu ghép còn lại nhờ đặc tính hấp dẫn tạo xương; tuy nhiên mỗi loại vật liệu lại có những đặc điểm ưu việt khác nhau, để có thể cân nhắc lựa chọn tùy theo từng ca bệnh.
Mặc dù xương ghép đồng loại là một trong số vật liệu ghép thường gặp nhất, mang các đặc tính hấp dẫn tạo xương và kích thích sinh xương. Tuy vậy, loại xương ghép này cũng có nhược điểm là các đặc tính nêu trên phụ thuộc vào chất lượng của cá thể cho bởi khả năng kích thích tạo xương phụ thuộc nhiều vào tuổi tác. Nếu người cho càng lớn tuổi thì đặc điểm kích thích tạo sinh xương càng kém hơn. Ngoài ra, quá trình khử khoáng hóa của mảnh ghép thay đổi giữa các ngân hàng mô khác nhau, có thể ảnh hưởng đến quá trình tái sinh trên lâm sàng.
Đặt tất cả các yếu tố này lên bàn cân, thì xương ghép dị loại có nguồn gốc động vật (bò) đang ngày càng trở nên phổ biến. Đó là một vật liệu hứa hẹn những kết quả tái sinh xương tốt. Hiện nay có sản phẩm xương ghép Xenograft có tên là Ti-oss (BDX)
2. BáO CÁO CA LÂM SÀNG
Một bệnh nhân mất răng lâu ngày vị trí R21 và lượng xương tiêu ngót tới ngang mức 1/3 chóp của R22 kế cận (Hình 1). Một phục hồi tạm thời ở vị trí R21 được liên kết với các răng kế bên bởi 1 nẹp liên kết (Hình 1). Bệnh nhân mất R21 do chấn thương một vài năm về trước và hiện tại đang mong muốn cấy ghép implant. Bệnh nhân có tiền sử hoàn toàn khỏe mạnh và không dị ứng thuốc.
Trên lâm sàng, sự thiếu hụt xương được phân loại vào nhóm C.2.e (Hình 2) theo phân loại Cologne classification. Thiếu hụt được ghép xương Ti-oss và màng Titanium reinforced Cytoplast. Tiến hành đặt implant tức thì Nobel Active 4.3/11.5 cho R21 và 3.5/11.5 cho R22
(Hình 3). Các implant được cho tải lực sau 5 tháng (Hình 4). Sau phẫu thuật 1 năm, theo dõi cho thấy mô mềm và mô cứng có cấu trúc tuyệt vời quanh implant, hoàn toàn không có vấn đề nào phát sinh (Hình 5).
3. KẾT LUẬN
khoáng hóa ví dụ như: không cần cá thể cho, không phụ thuộc vào tuổi tác, không giới hạn số lượng có thể cung cấp; sử dụng dễ dàng và hiệu quả dễ tiên lượng. Các ưu điểm khác đó là nó được loại bỏ 100% thành phần protein và có bản chất là crystalline hydroxyapatite có khả năng tương hợp sinh học tốt mà không xảy ra các phản ứng phụ hay dị ứng nào.
Để xem chi tiết bài nghiên cứu, mời bác sĩ truy cập vào đường link bên dưới: https://drive.google.com/file/d/1FAjscJVWITnOFZWowB6mOpS6ZB0W24Mw/view?usp=sharing