BÀI NGHIÊN CỨU: SỰ HÌNH THÀNH XƯƠNG GIAI ĐOẠN SỚM SAU CẤY GHÉP IMPLANT TẢI LỰC TỨC THÌ

Sự hình thành xương giai đoạn sớm sau cấy ghép implant tải lực tức thì, với bề mặt phủ cấu trúc nano calcium vs. bề mặt machined: Phân tích hình thái mô học có đối chứng ngẫu nhiên ở vùng hậu hàm, nghiên cứu trên cơ thể người.

Francesco Guido Mangano, Giovanna Iezzi, Jamil Awad Shibli.
Jefferson Trabach Pires, Giuseppe Luongo, Adriano Piattelli, Carlo Mangano

1. Mục đích:

Mục đích của nghiên cứu cấu trúc hình thái mô học có đối chứng ngẫu nhiên này đó là nhằm so sánh sự hình thành xương sớm quanh các implant tải lực tức thì; được cấy ở vùng hậu hàm trên ở người – với 2 hình thái cấu trúc bao gồm cấu trúc NCI (nanostructured
calcium-incorporated) và cấu trúc MA (machined surface).

2. Giới thiệu

Trong những năm gần đây, tải lực tức thì đã trở thành xu thế phổ biến trong implant đương đại. Trên thực tế, nó đáp ứng được nhu cầu của bệnh nhân, giúp giảm số lần phẫu thuật và từ đó giảm thời gian/chi phí cho quy trình phẫu thuật và làm phục hình. Tải lực tức thì loại bỏ việc
phải phẫu thuật thì 2, nó được ưa chuộng bởi ngay lập tức tạo ra sự thuận tiện cho bệnh nhân, giúp tránh việc phải mang các phục hình tạm tháo lắp trong quá trình chờ đợi liền thương.
Để đảm bảo tải lực tức thì, đặc biệt là ở những vùng xương chất lượng kém (ví dụ như là vùng hậu hàm trên), một số tác giả đề xuất sử dụng implant có bề mặt có khả năng kích thích tạo xương mới và có thể làm tăng chất lượng kết nối giữa implant và xương, giúp giảm thời gian lành thương.
Mục tiêu của implant hiện đại bao gồm 2 nội dung: Một mặt, nhằm tạo ra kết quả tích hợp xương tốt và ổn định dài hạn (đạt được liên kết implant-xương ở hầu hết bề mặt implant); mặt khác, làm giảm thời gian lành thương, nhắm tới việc tái lập hoạt động chức năng nhanh nhất có thể cho implant.
Các nghiên cứu cho thấy rằng bề mặt implant là yếu tố then chốt. Sự xuất hiện của các bề mặt implant với các đặc tính bề mặt đã qua xử lý (thổi cát, acid etched, hoặc kết hợp thổi cát với acid etched) – làm tăng khả năng tân sinh xương mới; cho phép các bác sĩ lâm sàng đạt được những kết quả hoàn hảo.
Gần đây, sự tập trung đã chuyển dịch sang xử lý bề mặt implant với kỹ thuật phủ nano- nanotopography. Trên thực tế, công nghệ này khi áp dụng trên bề mặt implant độ thô trung bình giúp thúc đẩy quá trình tạo xương, tăng tỷ lệ tiếp xúc xương-implant và tăng sự kết nối ở diện tiếp xúc giữa xương và implant.
Bởi vì titanium và các hợp kim của nó cho thấy hoạt tính tích hợp xương gia tăng khi được phủ lên bề mặt lớp tinh thể, thông qua các xử lý hóa học và nhiệt học đơn giản,  nhiều bề mặt phủ các loại cấu trúc nano tinh thể (nanostructured calcium-incorporated) đã được giới thiệu. Trong số đó phải kể đến bề mặt phủ tinh thể rời rạc calcium phosphates, tạo ra thông qua sự lắng đọng ion canxi dưới sự hỗ trợ của chùm tia ion, và bề mặt tích hợp ion Calcium thông qua phương pháp thủy nhiệt (hydrothermal).
Nghiên cứu mô học là cách tốt nhất để hiểu rõ về sự lành thương xương trên bề mặt implant. Mặc dù đã có các nghiên cứu chỉ ra rằng, việc áp dụng lâm sàng của implant có bề mặt được tích hợp nano calcium giúp tạo ra tỷ lệ tồn tại và tỷ lệ thành công cao hơn, ít nhất là trong các khảo sát ngắn hạn, nhưng vẫn còn rất ít sự hiểu biết chi tiết về các đáp ứng hình thành xương sớm đối với cấu trúc phủ nano calcium ở trên người. Thực tế là có rất ít các nghiên cứu hình thái mô học nói về chủ đề này. Hầu hết trong số các nghiên cứu chỉ dựa trên một số ít mẫu, thu thập ở vùng hậu hàm của các loài động vật khác nhau, và không tải lực trong pha lành thương. Với sự tìm hiểu của tác giả thì trong y văn chưa từng có nghiên cứu hình thái mô học nào được tiến hành trên người, có tải lực tức thì với các implant có tích hợp cấu trúc nano calcium. Do đó, mục đích của nghiên cứu hình thái mô học có đối chứng ngẫu nhiên này là nhằm so sánh các đặc tính lành thương xương sớm quanh implant tải lực tức thì trên 2 nhóm: Implant nanostructured calcium-incorporated (NCI) và machined (MA), cấy ở vùng xương hậu hàm trên.

3. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu này được thiết kế là một nghiên cứu hình thái mô học có đối chứng ngẫu nhiên, thực hiện trên các implant tải lực tức thì đặt ở vùng xương hậu hàm trên ở người; được thu thập sau 08 tuần. Cụ thể, nghiên cứu nhằm so sánh đáp ứng hình thành xương sớm với các implant tải lực tức thì ở nhóm bề mặt NCI và bề mặt MA. Sử dụng quy trình phẫu thuật thông thường giống với cấy ghép implant truyền thống, mỗi bệnh nhân được đặt 2 implant transmucosal (n = 1 NCI implant: thử nghiệm; n = 1 MA implant: đối chứng), vị trí cấy ở vùng hậu hàm trên, tuân theo thiết kế nghiên cứu split-mouth. Implant transmucosal được cấy ghép với mục đích nâng đỡ cho một hàm giả toàn bộ hàm trên, cho tới khi sự lành thương hoàn toàn của các implant truyền thống hoàn tất. Sau 8 tuần, vào thì phẫu thuật thứ 2 để bộc lộ các implant truyền thống, tất cả các implant transmucosal tạm thời – được thu hồi lại để đưa vào các đánh giá mô học.

4. Bàn luận

Hiện nay, phân tích hình thái mô học là một phương pháp đánh giá có tính chính xác cao nhất giúp kiểm tra được tiến trình lành thương xương và các đặc điểm hình thái của diện tiếp xúc xương với implant.  Thật không may, chỉ có một số ít nghiên cứu trong y văn nói về đánh giá hình thái mô học của implant NCI được cấy ghép ở trên cơ thể người.
Điều này là bởi vì vấn đề đạo đức liên quan đến việc thu thập implant cấy vào cơ thể người để nghiên cứu. Với nghiên cứu hình thái mô học ở người, Goenè và cộng sự cấy 9 cặp implant (nhóm thử nghiệm: 09 implant được xử lý kép với acid-etched và phủ tỉnh thể kích thước nhỏ nanometer calcium phosphate và nhóm chứng: 09 implant xử lý acid etched đơn thuần). Các implant được cấy vào xương hậu hàm trên cơ thể người. Chúng được thu thập bằng cách sử dụng mũi khoan trephine sau 4 hoặc 8 tuần không tải lực, nhằm đánh giá tỷ lệ và lượng xương mới hình thành thông qua phân tích mô học. Giá trị trung bình về tiếp xúc xương-implant cao hơn rõ rệt ở nhóm thử nghiệm so với nhóm chứng ở tất cả các mốc thời gian xem xét. Các tác giả kết luận rằng sự bổ sung nanometer-scale calcium phosphate lên trên bề mặt đã được dual acid-etched làm tăng sự tổng hợp xương sau 4 tuần và 8 tuần.
Các kết quả tương tự cũng được ghi nhận bởi Orsini và cộng sự. Họ đánh giá đáp ứng của xương với bề mặt nanostructured implant, tạo ra nhờ vào việc phủ lên bề mặt đã dual acid-etched một lớp nanometer-sized calcium phosphate. Mini-implant với bề mặt được cải tiến với
nanostructured calcium-phosphate (thử nghiệm) và Mini-implant dual acid-etched (chúng) được cấy vào vùng hậu hàm trên ở 15 bệnh nhân. Sau 2 tháng, kết quả chỉ số trung bình ở nhóm thử nghiệm và nhóm chứng lần lượt là BIC(±SD)% là 32.2(±18.5)% và 19.0(±14.2)%
Mặc dù tất cả các nghiên cứu trên người nêu trên đều cho rằng xử lý bề mặt với tinh thể nanometer-sized calcium phosphate có thể thúc đẩy tích hợp xương, tạo ra sự hình thành xương mới tốt hơn trên bề mặt implant,  nhưng tất cả đều chưa từng thực hiện trong trạng thái tải lực
tức thì của các NCI implant ở trên cơ thể người. Do đó, mục đích nghiên cứu phân tích hình thái mô học ngẫu nhiên có đối chứng của tác giả nhằm đánh giá được sự hình thành xương trong giai đoạn sớm, với điều kiện tải lực tức thì trên các NCI implant cấy ở vùng hậu hàm trên ở người. Và đồng thời so sánh các kết quả này với các implant MA. 15 bệnh nhân mất răng toàn bộ đã được cấy 2 implant chuyển tiếp tạm thời với 2 loại bề mặt: NCI (thử nghiệm) và MA (chứng). Tất cả các implant đều được cấy ở vùng hậu hàm trên, tuân thủ thiết kế nghiên cứu split-mouth, và cho tải lực tức thì; bởi vì nó giúp nâng đỡ cho phục hình tạm hàm trên. Sau 8 tuần, toàn bộ các implant chuyển tiếp được thu hồi để phân tích hình thái mô học. Đối với nhóm implant MA, phân tích hình thái mô học cho kết quả giá trị trung bình BIC(±SD)% và BD(±SD) lần lượt là 21.2(±4.9)% & 29.8(±7.8)%.

5. Kết luận

Trong phạm vi giới hạn của các dữ liệu phân tích hình thái mô học, các implant NCI tải lực tức thì được cấy ghép ở vùng hậu hàm trên có tỷ lệ BIC% cao hơn so với implant MA. Tuy nhiên, các dữ liệu này cần được sử dụng một cách thận trọng bởi đặc điểm thiết kế và phương pháp áp dụng trong nghiên cứu này (chỉ khảo sát các implant đạt độ ổn định). Do đó, cần thêm các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên để đưa ra các kết luận rõ ràng hơn nữa về đáp ứng hình thành xương sớm đối với NCI implants, khi cho tải lực tức thì.
Để đọc chi tiết bài nghiên cứu & phương pháp nghiên cứu, bác sĩ hãy xem tại đây nhé: Báo cáo: Sự hình thành xương giai đoạn sớm sau cấy ghép implant tải lực tức thì
𝐓𝐈́𝐍 𝐍𝐇𝐀
Everything for Your dental practice
—————————————————

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *